Đại diện Tổng công ty Hàng hải VN (VIMC) cho biết, tại buổi làm việc của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính với lãnh đạo tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu về phát triển KT-XH địa phương chiều nay (18/12), VIMC cùng các cơ quan chức năng của địa phương báo cáo và đề xuất cơ chế cảng mở đối với 8 bến thuộc của cụm cảng Cái Mép – Thị Vải.
Ước tính, nếu hai cảng liền kề tại khu vực Cái Mép liên kết có thể khai thác thêm bến thứ ba ở giữa và tăng thêm 50% công suất của hai cảng, khoảng 1,2 triệu TEU/năm – Ảnh minh họa
Lãnh đạo VIMC cho biết, theo quy hoạch hệ thống cảng biển được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, các cảng khu vực Cái Mép – Thị Vải được phân loại là cảng đặc biệt trong hệ thống cảng biển Việt Nam. Khu bến Cái Mép có chức năng trung chuyển hàng hóa.
Từ năm 2014 đến nay, tốc độ tăng trưởng khu bến Cái Mép luôn đạt hai con số, liên tục đón các tàu có trọng tải lớn vào khu vực làm hàng. Trong khi đó, các bến cảng được phân bổ rải rác và hầu hết đều hạn chế về chiều dài cầu tàu (trung bình 600m bến/cảng) trong khi kích cỡ tàu cập cảng khu vực Cái Mép ngày càng tăng, chiều dài tàu lên tới 400m. Mỗi bến cảng chỉ có thể tiếp nhận được 1 tàu mẹ.
Đáng nói, hiện mỗi bến cảng tại Cái Mép là một cửa khẩu nên để chuyển hàng từ cảng này sang cảng khác thì khách hàng, hãng tàu phải hoàn thiện các thủ tục hải quan, thời gian hoàn thiện thủ tục kéo dài, dẫn đến các hãng tàu còn e dè trong việc quyết định tăng sản lượng hàng trung chuyển tại khu vực Cái Mép.
“Thực tế cho thấy, nhu cầu kết nối hàng hóa giữa các tàu cập tại các bến cảng khác nhau trong khu cảng Cái Mép là rất cao. Đặc biệt, trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến phức tạp, để chuỗi cung ứng không bị đứt gãy ngay tại cảng biển, việc các bến trong cùng một cụm cảng hỗ trợ nhau tiếp nhận tàu và xếp dỡ hàng hóa được đặt ra cấp thiết”, đại diện VIMC nói.
Cơ chế liên kết khai thác và luân chuyển hàng hóa giữa các bến cảng trong khu vực Cái Mép Thị Vải (gọi tắt cơ chế “cảng mở”) sẽ tối ưu hóa công suất khai thác và tận dụng tối đa cầu bến của nhau, giải quyết được các hạn chế về cầu bến, giảm chi phí logistic cho hàng hóa xuất nhập khẩu thông qua khu vực.
Ước tính, nếu hai cảng liền kề liên kết có thể khai thác thêm bến thứ ba ở giữa và tăng thêm 50% công suất của hai cảng khoảng 1,2 triệu TEU/năm. Nếu giải pháp kết nối giữa 2 cảng CMIT và TCTT được thực hiện thành công thì mỗi năm riêng CMIT sẽ tăng doanh thu khoảng 20 triệu USD.
Hàng hóa được kết nối thông suốt giữa các cảng, phương tiện vận tải cũng không phải đợi cầu tàu, tốc độ quay vòng cao. Dự kiến, khi giải pháp cảng mở được thực hiện, chi phí vận chuyển sà lan sẽ giảm khoảng 10-15%, mỗi năm sẽ tiết kiệm được khoảng 15 triệu USD.
Đại diện VIMC cũng khẳng định, cơ chế cảng mở không làm thay đổi phương thức quản lý hàng hóa tại mỗi bến cảng, tại mỗi chi cục hải quan. Các chi cục hải quan trong khu vực cảng mở chỉ bổ sung nghiệp vụ quản lý luân chuyển hàng hóa trong cảng mở thông qua hệ thống CNTT và phương tiện vận chuyển đặc thù của đơn vị vận hành cảng mở.
Hoạt động của cảng mở dựa trên hệ thống CNTT kết nối với các cảng hiện hữu và dữ liệu của hải quan để đảm bảo kiểm soát hàng hóa chính xác. Hàng hóa vận chuyển trong cảng mở không phải mở tờ khai chuyển tiếp và niêm phong kẹp chì một lần nữa.
Đơn vị vận hành cảng mở cung cấp phương tiện vận chuyển đặc thù chạy nội bộ trong phạm vi cảng mở với thiết kế nhận diện riêng, thuận tiện cho cơ quan quản lý nhà nước kiểm tra và giám sát hàng hóa luân chuyển.
Một lãnh đạo Hiệp hội Cảng biển VN cho biết, theo nghiên cứu của một số tạp chí hàng hải có uy tín, từ năm 2004 đến nay, cỡ tàu từ 12.000 TEU trở lên đã có chiều dài từ 366 – 399m. Đến năm 2023, tàu có chiều dài từ 366 – 399m dự báo sẽ chiếm chủ đạo.
Về mặt khí thải, các tàu diesel sẽ được thay thế bằng tàu chạy khí LNG, cỡ tàu tối thiểu 366 – 370m trở lên. Các cỡ tàu này được các hãng vận tải đặt đóng trong 3 năm qua và sẽ giao từ nay đến năm 2024 nên việc liên kết các bến cảng tại Cái Mép – Thị Vải, đáp ứng nhu cầu đón hai tàu mẹ cùng lúc là cần thiết.
Nguồn: baogiaothong