Ngành logistics tại Việt Nam đang trải qua những bước chuyển mình mạnh mẽ, đặc biệt trong bối cảnh làn sóng đầu tư và hoạt động mua bán – sáp nhập (M&A) diễn ra sôi động. Đây không chỉ là cơ hội để các doanh nghiệp ngoại tăng tốc chiếm lĩnh thị trường mà còn là chiến lược nhằm thúc đẩy sự phát triển của một ngành vốn được coi là “xương sống” của nền kinh tế.
Tiềm năng đầy hứa hẹn
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam xếp thứ 43 trong Chỉ số hiệu quả logistics (LPI) năm 2023, thuộc nhóm 5 quốc gia đứng đầu ASEAN. Điều này phản ánh sự tiến bộ rõ rệt của hệ sinh thái logistics trong nước. “Việt Nam đang dẫn đầu sự dịch chuyển của dòng chảy sản xuất và thương mại trong khu vực Đông Nam Á, chiếm hơn 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của ASEAN đến một số khu vực khác”, ông Yap Kwong Weng, CEO Việt Nam SuperPortTM, đã nhấn mạnh tại Hội nghị logistics Việt Nam 2024.
Với quy mô ngành đạt mức tăng trưởng trung bình từ 14 – 16% mỗi năm, các doanh nghiệp logistics đang có cơ hội rất lớn để bứt phá. Bảng xếp hạng về Chỉ số thị trường mới nổi của Agility, nhà cung cấp dịch vụ logistics hàng đầu thế giới, cho thấy Việt Nam đứng thứ 10/50 thị trường mới nổi vào năm 2023, tăng một bậc so với năm trước.
Tổng giám đốc Công ty TNHH MTV thương mại và tiếp vận Bảo Tín, ông Đỗ Hoàng Phương cho biết: “Sự dịch chuyển này là một cơ hội vàng, nhưng các doanh nghiệp cần tận dụng nhanh để chuyển đổi số và chuyển đổi xanh, nếu không sẽ bỏ lỡ cơ hội”.
Có thể nói, xu hướng M&A trong ngành logistics tại Việt Nam đang nổi lên như một lựa chọn chiến lược hấp dẫn cho các nhà đầu tư quốc tế, những người muốn nhanh chóng gia nhập và thiết lập chỗ đứng vững chắc trong thị trường đầy tiềm năng này. Thay vì xây dựng từ đầu, việc mua lại hoặc hợp tác với các doanh nghiệp nội địa có sẵn cơ sở hạ tầng là cách hiệu quả để tránh những thủ tục phức tạp, rút ngắn thời gian và tiết kiệm chi phí đáng kể.
Theo số liệu mới nhất từ Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến ngày 30/9/2024, tổng vốn đăng ký của các dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, đã đạt mức hơn 24,78 tỷ USD, tăng 11,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, vốn thực tế được các nhà đầu tư rót vào các dự án đạt khoảng 17,3 tỷ USD, tăng 8,9%. Mặc dù con số này không hoàn toàn dành riêng cho ngành logistics, nhưng cho thấy mức độ quan tâm và sức hút của thị trường Việt Nam đối với các nhà đầu tư quốc tế, bao gồm cả lĩnh vực logistics.
Giải thích thêm về chiến lược của các nhà đầu tư quốc tế, ông Đinh Hoài Nam, Giám đốc phát triển kinh doanh của SLP Việt Nam, cho biết: “Chúng tôi ưu tiên mua lại các doanh nghiệp có sẵn quỹ đất vì điều đó giúp tránh được các quy trình phức tạp như xin giấy phép dự án hay giải phóng mặt bằng. Đây là cách tối ưu để thiết lập chỗ đứng vững chắc, đồng thời tận dụng hiệu quả các nguồn lực sẵn có”.
Điều này cho thấy, ngành logistics Việt Nam đang trở nên sôi động hơn bao giờ hết. Các nhà đầu tư quốc tế sẵn sàng rót vốn lớn để tham gia thị trường, tạo ra sức ép cạnh tranh khốc liệt cho các doanh nghiệp trong nước, vốn còn đang gặp nhiều thách thức trong việc mở rộng quy mô và duy trì lợi thế.
Doanh nghiệp nội cần thay đổi
M&A có nhiều lợi thế cho các nhà đầu tư nước ngoài, giúp họ nhanh chóng tiếp cận thị trường và tận dụng hạ tầng có sẵn, đồng thời giảm được rào cản pháp lý trong bối cảnh thủ tục hành chính ở Việt Nam còn phức tạp. “Logistics là ngành xương sống và việc tối ưu hóa chuỗi cung ứng là chìa khóa để giảm chi phí, tăng hiệu quả. Theo đó, M&A giúp chúng tôi tiết kiệm thời gian và chi phí khởi động hơn”, ông Yap Kwong Weng giải thích thêm.
Ngành logistics tại Việt Nam thu hút rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài.
Với tiềm năng trên, ngành logistics tại Việt Nam thu hút rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Điều này cũng đặt ra thách thức cho các doanh nghiệp trong nước khi cạnh tranh với các đối thủ ngoại. Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đỗ Thành Trung thừa nhận: “Chính sách và thể chế dành cho ngành còn chưa đồng bộ. Các doanh nghiệp logistics gặp khó khăn về vốn, thiếu kinh nghiệm và nguồn nhân lực chất lượng cao, dẫn đến khó mở rộng quy mô và cạnh tranh với các doanh nghiệp ngoại”.
Ông Đinh Thanh Sơn, Phó Tổng giám đốc Tổng công ty Bưu chính Viettel cũng chia sẻ: “Không ít công ty nội địa chưa kịp lớn đã bị thâu tóm. Họ thiếu kinh nghiệm trong việc thương thảo, phân tích tài chính và điều này càng làm gia tăng nguy cơ bị M&A”.
Để duy trì sự cạnh tranh và phát triển bền vững, nhiều ý kiến cho rằng, các doanh nghiệp logistics cần tập trung vào chuyển đổi số và phát triển bền vững. Ông Cao Hồng Phong, Phó Tổng giám đốc cảng Gemalink, cho biết: “Gemalink đã tiến hành kiểm kê phát thải khí nhà kính hàng năm và chuyển đổi sang sử dụng năng lượng tái tạo. Đây là những bước đi cần thiết để phát triển cảng thông minh và bền vững”. Cảng Gemalink hiện đóng vai trò quan trọng trong kết nối giao thương giữa Việt Nam và các thị trường lớn như Mỹ và châu Âu, dự kiến khởi công giai đoạn 2A từ năm 2026.
Theo ông Đỗ Hoàng Phương, việc ứng dụng công nghệ trong quản lý vận hành giúp tiết kiệm chi phí dài hạn. “Chúng tôi đã đầu tư mạnh mẽ vào tự động hóa, từ quản lý đội xe đến theo dõi lộ trình nhằm giảm thời gian vận chuyển và hạn chế lãng phí, không chỉ thế còn tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế”, ông Phương cho biết.
Tuy nhiên, để hỗ trợ các doanh nghiệp logistics phát triển bền vững, Chính phủ cần đơn giản hóa thủ tục hành chính và tạo điều kiện cho các nhà đầu tư. Thứ trưởng Đỗ Thành Trung kêu gọi: “Chúng tôi cần ý kiến từ doanh nghiệp để hoàn thiện chính sách, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho ngành logistics; đồng thời, cần có sự đồng hành giữa cơ quan quản lý và doanh nghiệp để vượt qua các thách thức và phát triển mạnh mẽ hơn”.
Bàn thêm vấn đề này, ông Lê Tuấn Anh, Vụ trưởng Vụ Kinh tế công nghiệp, dịch vụ (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) chia sẻ thêm: “Việt Nam đang sửa đổi hàng loạt chính sách nhằm phân quyền mạnh hơn và cải thiện cơ sở hạ tầng, bao gồm cả tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam và hệ thống đường bộ. Những thay đổi này sẽ giúp tăng cường kết nối và giảm chi phí logistics, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững trong tương lai”.