(KTSG Online) – Việt Nam đã thu hút được nhà đầu tư là các nhà khai thác cảng chuyên nghiệp, các hãng tàu lớn. Nguồn vốn ngoài ngân sách huy động đầu tư cho lĩnh vực hàng hải trong giai đoạn vừa qua hơn 173.000 tỉ đồng, xấp xỉ 86% tổng vốn đầu tư.
Baochinhphu.vn dẫn báo cáo của Bộ Giao thông Vận tải về việc hoàn thiện “Quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển, bến cảng, cầu cảng, bến phao, khu nước, vùng nước thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050” cho biết, tính đến năm 2030, tổng nhu cầu đầu tư cho hệ thống cảng biển là 312.625 tỉ đồng. Trong đó, nhu cầu vốn đầu tư cho hạ tầng hàng hải công cộng khoảng hơn 70.000 tỉ đồng và nhu cầu vốn đầu tư cho bến cảng khoảng hơn 242.000 tỉ đồng.
Đến năm 2025, tập trung đầu tư nâng cấp tuyến luồng Cái Mép – Thị Vải phục vụ tàu đến 200.000 tấn giảm tải, dự án luồng cho tàu biển trọng tải lớn vào sông Hậu – giai đoạn 2 cho tàu đến 20.000 tấn giảm tải và luồng sông Văn Úc cho tàu 10.000 tấn, luồng sông Chanh cho tàu đến 50.000 tấn.
Ưu tiên đầu tư đèn biển tại các đảo, quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam, kết cấu hạ tầng phục vụ công tác bảo đảm an toàn hàng hải; xây dựng Đài thông tin duyên hải, Trung tâm Tìm kiếm cứu nạn, đại diện Cảng vụ hàng hải Nha Trang tại Trường Sa.
Đến năm 2030, tiến hành đầu tư xây dựng công trình đê chắn sóng cảng Vũng Áng (Hà Tĩnh), đồng thời cải tạo, nâng cấp hệ thống đê chắn cát luồng Cửa Việt, Cửa Gianh cũng như cải tạo, nâng cấp luồng Cẩm Phả, luồng Ba Ngòi, luồng Hòn La, luồng hàng hải qua cửa Trần Đề và chỉnh trị luồng hàng hải Diêm Điền, Văn Úc.
Hệ thống quản lý hàng hải tàu biển (VTS) cũng sẽ được ưu tiên đầu tư tại luồng Hòn Gai – Cái Lân và luồng cho tàu trọng tải lớn vào sông Hậu.
Đối với các bến cảng biển, đến năm 2025 sẽ ưu tiên đưa vào khai thác các bến 3, 4, 5, 6 tại khu bến Lạch Huyện, bến khởi động tại khu bến Liên Chiểu và các bến cảng chính thuộc cảng biển loại I.
Ngoài ra, phát triển các bến khách quốc tế gắn với các vùng động lực phát triển du lịch, cũng như các bến cảng quy mô lớn gắn trung tâm điện lực than, khí, xăng dầu, luyện kim và các bến phục vụ khu kinh tế ven biển.
Giai đoạn này cũng kêu gọi đầu tư các bến cảng tại các cảng biển tiềm năng như Vân Phong và Trần Đề. Đến giai đoạn năm 2030, sẽ đầu tư bến khởi động khu bến Nam Đồ Sơn (Hải Phòng), các bến cảng tại khu vực Cái Mép hạ và hạ lưu Cái Mép hạ và khu bến Trần Đề (Sóc Trăng).
Tính đến tháng 10-2022, cả nước có 296 bến cảng, chiều dài khoảng 107 km cầu cảng, tăng gấp 5 lần so với năm 2000. Đồng thời, đã hình thành các cảng cửa ngõ quốc tế tại khu vực phía bắc và phía nam, cũng như tiếp nhận thành công tàu container đến 145.000 tấn tại khu bến Lạch Huyện (Hải Phòng), đến 214.000 tấn tại khu bến Cái Mép (Bà Rịa – Vũng Tàu).
Các bến cảng chuyên dùng cũng được phát triển và tiếp nhận được nhiều tàu trọng tải lớn. Các bến chuyên dùng quy mô lớn gắn với các khu công nghiệp, liên hợp luyện kim, lọc hóa dầu, trung tâm nhiệt điện than tiếp nhận tàu đến 200.000 tấn, hàng lỏng đến 150.000 tấn (tàu xuất sản phẩm), dầu thô đến 320.000 tấn, cơ bản đã đạt được các mục tiêu quy hoạch đến năm 2020.
Đáng chú ý, trong lĩnh vực hàng hải, nguồn vốn ngoài ngân sách huy động đầu tư cho lĩnh vực hàng hải trong giai đoạn vừa qua khoảng 173.400 tỉ đồng, xấp xỉ 86% tổng vốn đầu tư.
Theo Bộ Giao thông Vận tải, để thu hút lượng vốn lớn như vậy, với những chính sách mở về đầu tư, thời gian qua cảng biển Việt Nam đã thu hút được các doanh nghiệp đầu tư cảng biển, nhà đầu tư là các nhà khai thác cảng chuyên nghiệp, các hãng tàu lớn của thế giới tham gia đầu tư xây dựng và vận hành khai thác cảng.
Do đó, việc triển khai các quy hoạch có tính kỹ thuật, chuyên ngành nhằm cụ thể hóa Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển là điều cần thiết để hệ thống cảng biển phát triển đồng bộ, liên tục trong quy hoạch tổng thể, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Theo báo cáo “Chỉ số hoạt động cảng năm 2021” (CPPI 2021) của Ngân hàng Thế giới và Hãng tin Tài chính S&P Global Market Intelligence, cụm cảng Cái Mép được xếp hạng thứ 11 trên tổng số 370 cảng/cụm cảng container hoạt động tốt nhất toàn cầu (theo cách tính thống kê trung bình 5 nhóm kích cỡ tàu) – tăng 38 bậc so với năm 2020 và xếp thứ 13 về chỉ số “administrative approach” (theo cách tính kỹ thuật, cho trọng số cao hơn cho kích cỡ tàu phổ biến ở cảng đó) – tăng 5 bậc so với năm 2020. Ngoài cụm cảng Cái Mép, cảng Vũng Tàu của Việt Nam cũng đạt thứ hạng 37/370 theo cách tính kỹ thuật.
N.Tân
Nguồn: thesaigontimes.vn